Máy đồng hồ Calibre 11 do thương hiệu Dubois Depraz phát triển chắc chắn là một trong những biểu tượng của đồng hồ Chronograph, bên cạnh cỗ máy Zenith El primero hay Seiko 6139. trong bài viết này Viện Đồng Hồ sẽ cùng anh chị em tìm hiểu sâu hơn về cỗ máy đồng hồ này nhé.
Một chút lịch sử về đồng hồ Chronograph
Năm 1969 là một năm mang tính cách mạng của ngành chế tạo đồng hồ với sự ra đời của đồng hồ chronograph tự động của ba dự án nghiên cứu và phát triển riêng biệt và được giới thiệu gần như đồng thời vào thời điểm đó.
Năm mươi năm trôi qua, Zenith đã kỷ niệm 50 năm El Primero với sự phô trương tuyệt vời, Seiko kỷ niệm 50 năm đồng hồ bấm giờ tự động và TAG Heuer vinh danh mẫu đông hồ trở thành biểu tượng của thương hiệu mình sau 50 năm đó chính là mẫu đồng hồ Monaco. Đã đến lúc Dubois Depraz vinh danh một cỗ máy cung cấp một số đồng hồ bấm giờ thể thao mang tính biểu tượng nhất: Calibre 11 hoặc Chronomatic.
Liên minh Chronomatic và dự án 99
Lịch sử của Calibre 11 bắt đầu vào cuối năm 1965. Khi Büren tiên phong trong lĩnh vực sản xuất các cỗ máy sử dụng roto nhỏ, Gérard Dubois (của Dépraz & Co., một chuyên gia bấm giờ) đã nhận ra rằng những thứ này sẽ đủ mỏng để làm cơ sở cho một cỗ máy chronograph mô-đun.
Dubois liên lạc với Hans Kocher của Büren Watch Co. SA. Khi cần các đối tác thương mại, họ đã thuyết phục được Jack Heuer đầu tiên và sau đó là Willy Breitling để hỗ trợ dự án. Vào ngày 2 tháng 2 năm 1966, một thỏa thuận được ký kết. Liên minh Chronomatic bốn bên được ra đời, bao gồm hai thương hiệu đối thủ hợp tác để phát triển đồng hồ bấm giờ tự động của riêng họ. Vì mục đích bảo mật, sự phát triển có tên là Dự án 99.
Büren phụ trách phần bưởng dưới, bao gồm phần tự động. Depraz sẽ phụ trách bưởng trên với cơ chế bấm giờ chronograph. Ba thương hiệu là Heuer, Breitling và Hamilton (đã mua Buren trong quá trình phát triển) sẽ hoàn thiện phần chuyển động bên trong đồng hồ của họ. Một đơn xin cấp bằng sáng chế cho Calibre 11 được nộp vào tháng 9 năm 1967.
Vào cuối năm 1968, khoảng 100 cỗ máy được sản xuất và lắp ráp trong sự kiện của hội chợ Basel 1969. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1969, Cỗ máy được chính thức ra mắt, đồng thời ở New York và Geneva. Một tháng sau, ba thương hiệu trình bày đồng hồ bấm giờ đầu tiên của họ tại hội chợ Basel 1969.
Với tính ứng dụng cao trong thực tế và sự khả năng lên cót đủ tốt tạo ra sự hoạt động tốt cho đồng hồ Chronograph, đồng hồ bấm giờ trở thành một phần chính của mô tô thể thao Calibre 11 được sử dụng để cung cấp năng lượng cho những chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng của Heuer (Carrera, Monaco, Autavia), Breitling (Chrono-Matic) và Hamilton (Fontainebleau). Và sau đó là các thương hiệu khác như Bulova, Kelek, Zodiac, Elgin, Stowa…
Vậy, ai đã chiến thắng cuộc đua chế tạo Chronograph?
Đồng hồ chronograph tự động Zenith được công bố đầu tiên với thế giới. Nó được trình bày trong một cuộc họp báo vào tháng 1 năm 1969 và được đặt tên là El Primero. Thực tế phức tạp hơn một chút. Có những cuộc tranh luận bất tận về đó là đồng hồ Chronograph tự động đầu tiên, vì cả hai cỗ máy Seiko và Chronomatic đều được công bố vào cuối năm đó.
Hơn nữa, El Primero không phải là người đầu tiên tung ra thị trường. Nhưng những tranh cãi về việc ai là người đầu tiên không thực sự quan trọng nữa, điều quan trọng là tác động của những cỗ máy này đối với lịch sử chế tạo đồng hồ. Kể từ đó, đồng hồ chronograph tự động vẫn là một trong những chức năng phổ biến nhất
Máy đồng hồ Calibre 11
Máy đồng hồ Calibre 11 là đồng hồ tích hợp mô-đun bấm giờ sử dụng 17 chân kính và có kích thước 31mm x 7,7mm. Cấu trúc mô-đun này trước tiên sử dụng cỗ máy Micro Rotor của Buren làm cơ sở (bưởng dưới), phần bưởng dưới này có khả năng lên cót và cung cấp toàn bộ năng lượng cho đồng hồ. Đồng hồ hoạt động ở tần số 19.800 rung động mỗi giờ, và có khả năng dự trữ năng lượng lên đến 42 giờ.
Được sản xuất bởi Dépraz, mô-đun chronograph đòn bẩy được lắp ráp ở mặt trên của bộ máy cơ sở. Cỗ máy này có cho phép hiển thị hai subdial vở mặt số, với bộ đếm 30 phút lúc 3 giờ và bộ đếm 12 giờ lúc 9 giờ – và không có kim giây. Ngày được chỉ định lúc 6 giờ. Vị trí núm nằm ở góc khá khác thường, vào lúc 9 giờ đối diện với các đồng hồ bấm giờ chronograph khác, đây cũng là một tính năng đặc trưng của cỗ máy Calibre 11.
Máy đồng hồ Calibre 11 và sự phát triển
Giống như hầu hết các cỗ máy, Calibre 11 đã được phát triển và tối ưu nhiều lần trong suốt vòng đời của nó. Đầu năm 1969, hộp cót cung cấp ít mô-men xoắn hơn được sử dụng. Cơ chế nhảy ngày được điều chỉnh. Các bánh răng trượt được thay đổi và làm bằng thép.
Năm 1971, một biến thể chạy ở tần số 21.600 dao động mỗi giờ và được đặt tên là Calibre 12 được giới thiệu. Nó trở thành sản phẩm chính được sản xuất. Nó sử dụng một hộp cót tích được nhiều năng lượng hơn. Các bánh răng và bánh xe cân bằng được điều chỉnh. Búa chronograph được sửa đổi để cải thiện khả năng chống sốc.
Calibre 13 được phát triển để tích hợp chỉ báo giây nhỏ nhưng không bao giờ được thương mại hóa. Vào năm 1972, Calibre 14 thêm chức năng GMT và Calibre 15 thêm một giây nhỏ vào Calibre 12, được đặt ở vị trí 10 giờ, thay thế cho bộ đếm phụ giờ đã trôi qua.
Năm 1974, một cỗ máy mới, Calibre 7740, được ra mắt. Cỗ máy này có cùng hiển thị và các chức năng tương tự như Calibre 12, phần mô-đun chronograph giống hệt nhau. Tuy nhiên, nó dựa vào một cỗ máy nằm ở bưởng dưới khác nhau. Được sản xuất bởi Valjoux, năng lượng của đồng hồ được lên cót bằng tay, nó chạy ở tần số 28.800 mỗi giờ và núm được chuyển về vị trí quen thuộc ở góc 3 giờ.
Nó được sử dụng trong số các đồng hồ khác, trong các phiên bản cuối cùng của Heuer Monaco, chẳng hạn như chiếc Dark Lord được mạ PVD. Cỗ máy này cũng sẽ là lần cuối cùng sử dụng máy mô-đun chronograph đặc biệt này.
Như vậy Viện Đồng Hồ đã giới thiệu tới bạn đọc về máy đồng hồ Calibre 11. Đây được xem là một trong những cỗ máy mang tính biểu tượng của giới chế tác đồng hồ ngay từ khi ra mắt, bên cạnh Zenith El Primero và Seiko 6139.
(37)