Chân kính đồng hồ là gì? Những sự thật về chân kính đồng hồ 

chan kinh dong ho la gi nhung su that ve chan kinh dong ho

Chúng ta thường được nghe tới mọi người so sánh số lượng chân kính cho mỗi chiếc đồng hồ, phải chăng chúng rất quý giá? Công dụng của chân kính đồng hồ là gì? Chúng có quan trọng không? Tất cả những thắc mắc này sẽ được giải đáp trong bài viết dưới đây của Viện Đồng Hồ. Hãy theo dõi để có cho mình những thông tin thật bổ ích nhé.

Chân kính đồng hồ là gì? Chất liệu tạo nên chân kính đồng hồ?

Chân kính đồng hồ hay còn được gọi là jewel, đây là một chi tiết màu hồng, trong suốt, có trong các bộ máy đồng hồ bất kể là máy cơ hay máy pin. Chúng được Nicolas Fatio de Duillier, Pierre, Jacob Debaufre phát minh vào năm 1702/1704.

Chân kính
Chân kính

Thời điểm này đồng hồ cơ đã có độ phổ biến cao, khi nhược điểm chung là bộ máy của chúng dễ bị mài mòn do các bộ phận kim loại ma sát được phát hiện thì chân kính đồng hồ bắt đầu đưa vào sử dụng.

Hơn 400 năm qua, rất nhiều vật liệu đã được dùng để tạo nên chân kính như: Kim cương, đá quý, đá Sapphire, ngọc thạch lựu, ruby, thạch anh,… Chúng đều là những vật liệu có độ mài mòn thấp, độ cứng cao, trơn trượt khi tiếp xúc lẫn nhau có tác dụng chủ yếu là giảm ma sát để tăng độ bền cho bộ máy đồng hồ.

Tùy theo đẳng cấp của thương hiệu cùng chiếc đồng hồ mà người ta chọn loại tương ứng nhưng sau tất cả, phần lớn đều không quá đắt. Từ 1900 đến nay, nhiều loại vật liệu trên chỉ còn xuất hiện trên các mẫu đồng hồ đắt tiền còn phần lớn đồng hồ đều dùng Sapphire tổng hợp và Ruby nhân tạo do Auguste Verneuil phát minh.

Hiện nay có nhiều thương hiệu, nhà sản xuất đồng hồ rẻ tiền, đồ giả, đồ nhái,… đã dùng đến cả thủy tinh pha màu để làm chân kính. Thủy tinh có độ cứng thấp, dễ bị mài mòn khiến cho tác dụng duy trì độ bền rất hời hợt, chủ yếu để làm cho có “số lượng” bằng chị bằng em, cho “đẹp” là chính.

Tại sao chân kính lại quan trọng đến thế?

Mọi người thường cho rằng chân kính đồng hồ được dùng để trang trí cho bộ máy hoặc tăng giá trị của đồng hồ như tên gọi Jewel của nó. Mặc dù đây là một suy nghĩ đúng đắn nhưng công dụng này không quan trọng bằng hai công dụng tăng độ bền và độ chính xác.
5 công dụng của chân kính đồng hồ:

  • Giảm đi sự ma sát giữa các chuyển động để tăng độ chính xác (ở mức độ vừa phải)
  • Hệ quả của giảm đi ma sát chính là tăng tuổi thọ của các bộ phận bị lực tác động giúp đồng hồ bền hơn (rất đáng kể)
  • Chống sốc để tăng độ bền cho các chân kính đồng hồ khác (ở mức độ vừa phải)
  • Trang trí cho bộ máy của đồng hồ (rất đáng kể)
  • Tăng giá trị cho đồng hồ (không đáng kể đến rất đáng kể tùy theo vật liệu làm chân kính)

Lịch sử phát minh ra chân kính đồng hồ

Vào những năm đầu của thế kỷ 18, nhà toán học Thụy Sĩ và nhà thiên văn học Nicolas Fatio de Duillier phát minh ra một kỹ thuật khoan đá cứng với độ chính xác cao nhằm sử dụng chúng như những vòng bi bên trong đồng hồ cơ khí.

Ban đầu, chân kính được làm bằng hồng ngọc, sapphire hoặc kim cương. Nhưng bởi sự hạn chế về số lượng nên chúng chỉ được sử dụng cho những chiếc đồng hồ chất lượng cao. Và sau nhiều năm, mọi người luôn mặc định rằng số lượng chân kính sẽ thể hiện lên được đẳng cấp của đồng hồ.

Vào cuối thế kỷ 18, nhà hóa học người Pháp – Pierre Victor Louis de Verneuil đã phát minh ra  corundum nhân tạo. Pháp minh này như một bước tiến lớn với ngành công nghiệp đồng hồ. Việc có thể tạo ra một số lượng lớn chân kính đã khiến cho chúng có mức thành rẻ hơn và phổ biến hơn ở những cỗ máy đồng hồ trung cấp.

Pierre Victor Louis de Verneuil
Pierre Victor Louis de Verneuil

Vì sao gọi nó là chân kính đồng hồ?

Từ gốc Jewel có nghĩa là đá quý, được dùng để nhắc đến nguồn gốc vật liệu đồng thời ám chỉ chân kính đồng hồ là một bộ phận tuyệt đẹp và khá có giá trị, trang trí và tăng đẳng cấp của đồng hồ.

Còn từ chân kính lại có xuất phát từ Trung Quốc, có nghĩa là chân bằng kính, trong đó chân là chân/giá đỡ (nhưng thực ra không hẳn chân kính đều nằm ở phần chân) trong khi kính để ám chỉ sự trong suốt. Từ ngữ này đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ chúng ta vẫn thường dùng từ Hán-Việt lấy từ phiên âm tiếng nước ngoài của Trung Quốc.

Có bao nhiêu loại chân kính đồng hồ?

Đặc điểm chung của chân kính là đều khá nhỏ, to nhất là chân kính đầu trục bánh lắc lò xò. Tùy theo từng vị trí mà chân kính sẽ có những hình dạng và kích thước khác nhau.
Một số loại chân kính có thể kể đến như:

  • Chân kính tròn có lỗ xuyên tâm (Hole Jewels): Jewel hình tròn, dẹt, ở giữa được khoan lỗ, loại này được dùng để gắn vào các trục bánh răng xoay có vận tốc quay nhỏ, không yêu cầu cao lắm về độ sai số và độ chịu lực tác động từ các phương vuông góc với trục quay. Kích thước lỗ khoan tùy theo kích thước trục.
Hole Jewels
Hole Jewels
  • Chân kính tròn không có lỗ xuyên tâm (Cap Jewels): (còn gọi là chân kính mũ), Jewel có hình tròn, dẹt, ở giữa không khoan lỗ xuyên tâm hoặc không có lỗ, thường được đặt áp vào 2 đầu trục quay có yêu cầu cao về độ sai số, có vận tốc quay lớn, chịu ảnh hưởng nhiều bởi lực tác động dọc trục.
Cap Jewels
Cap Jewels
  • Chân kính dạng phiến, vuông chữ nhật (Pallet Jewels): là loại Jewel có hình viên gạch được gắn trên những điểm bị tác động, va đập theo chiều ngang như như hai đầu ngựa, trượt cò khoá, bánh thoát (còn gọi bánh xe gai).
Pallet Jewels
Pallet Jewels
  • Chân kính dạng con lăn (Roller Jewels): có hình dạng hình trụ, chỉ được gắn trên bệ bánh lắc để ngựa “đá”, điểm bị tác động va đập kiểu trượt (chiều ngang).
Roller Jewels
Roller Jewels
  •  Chân kính bảo vệ sốc (Shock Protection Jewels): không có hình dạng cụ thể, đây là một tổ hợp chân kính đồng hồ ngăn không cho làm vỡ chân kính cần bảo vệ khi đồng hồ bị chấn động mạnh.

5. Vị trí và số lượng chân kính đồng hồ trong bộ máy đồng hồ

Sơ đồ thể hiện vị trí của các loại chân kính trong cơ cấu hoạt động
Sơ đồ thể hiện vị trí của các loại chân kính trong cơ cấu hoạt động

Hình số 1: có 7 loại 1, loại 2, loại 3, loại 4. Cả phía trên và phía dưới của bánh lắc tổng cộng là 4, ngựa có 3.

Hình số 2: có 8 loại 1 và 2 hiện diện trên các trục xoay

Hình số 3: có 2 loại 1 trên hai đầu bánh răng trung tâm

Hình số 4: từ 2-4 loại 1 và loại 2 để có tổng cộng 19-21

Sơ đồ thể hiện vị trí của loại 5 trong cơ cấu chống sốc Incabloc (phổ biến trong máy ETA)
Sơ đồ thể hiện vị trí của loại 5 trong cơ cấu chống sốc Incabloc (phổ biến trong máy ETA)

Ngày nay, chân kính được dùng chủ yếu xuất hiện trên đồng hồ cơ và số ít đồng hồ pin cao cấp của Thụy Sĩ, Đức. Dựa vào lý thuyết tăng độ bền, theo dòng thời gian, số lượng chân kính đồng hồ tăng dần, dẫn đến một cuộc tranh cãi xảy ra về số lượng chân kính cần thiết trên một chiếc đồng hồ. Đến thời điểm hiện tại, cuộc tranh cãi này cũng đã đến hồi kết.

Chân kính đồng hồ chỉ cần thiết ở những nơi xảy ra sự ma sát, tác động của lực, tuyệt đối không phải là càng nhiều thì càng tốt, độ chính xác và độ bền của đồng hồ chỉ có thể tăng hết mức với số chân kính tối đa:

  • 4 chân kính cho đồng hồ pin với mặt hiển thị kim
  • 6-7 cho đồng hồ pin với mặt hiển thị kim nhiều chức năng
  • 17 cho đồng hồ cơ lên dây cót
  • 21 cho đồng hồ cơ tự động
  • 23 cho đồng hồ cơ có hai trống dự trữ năng lượng
  • 25-27 cho đồng hồ cơ đa năng
  • Có thể hơn 40 chân kính cho những chiếc đồng hồ cực kỳ phức tạp

(48)

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

 

 

Đóng So sánh ngay Xoá tất cả sản phẩm
Đóng

Tìm kiếm sản phẩm