Le Petit-Fils de L.-U. Chopard & Cie SA, thường được gọi là Chopard, là nhà sản xuất và bán lẻ đồng hồ, trang sức và phụ kiện cao cấp của Thụy Sĩ. Lịch sử thương hiệu Chopard bắt đầu vào năm 1860 bởi Louis-Ulysse Chopard tại Sonvilier, Thụy Sĩ. Chopard thuộc sở hữu của gia đình Scheufele của Đức từ năm 1963.
Lịch sử thương hiệu Chopard
Louis-Ulysse Chopard đã thành lập LUC tại làng Sonvilier của Thụy Sĩ vào năm 1860. Công ty nhanh chóng được biết đến với những chiếc đồng hồ bỏ túi được chế tác đẹp mắt, siêu mỏng và có độ chính xác cao. Cũng vì thế mà những chiếc đồng hồ mang thương hiệu Chopard đều nhận được sự ủng hộ nhiệt tình không chỉ ở Thụy Sỹ mà còn ở nhiều nước Đông Âu, Nga hay tại các vùng Scandinavia.
Vào năm 1921, con trai của Louis-Ulysse Chopard – Paul Louis Chopard đã mở một chi nhánh mới tại La-Chaux-de-Fonds và chuyển trụ sở của thương hiệu Chopard tới đây. Sau 16 năm, trụ sở của thương hiệu được di chuyển đến Geneva. Và đến năm 1943, cháu trai của người sáng lập tên là Paul André Chopard đã nhận quyền và trách nhiệm điều hành hoạt động của công ty.
Năm 1963, Chopard được bán cho Karl Scheufele III, thế hệ thứ ba của triều đại chế tạo đồng hồ Đức. Sở dĩ Paul André Chopard quyết định bán công ty là bởi vì những đứa con trai của ông không muốn kế thừa truyền thống chế tạo đồng hồ của gia đình. Scheufele đã không ngần ngại đồng ý với Paul André Chopard để tiếp tục truyền thống chế tạo của gia đình Chopard. Sau này, Scheufele cùng vợ mình là bà Karin đã đưa tên tuổi của thương hiệu đồng hồ Chopard đến nhiều quốc gia trên thế giới.
Hai người con của họ đều giữ vai trò đồng chủ tịch của công ty. Caroline Scheufele đảm nhận bộ sưu tập đồng hồ và trang sức nữ, Karl – Friedrich Scheufele chịu trách nhiệm chính với những bộ sưu tập đồng hồ nam giới và nhà máy sản xuất của thương hiệu Chopard tại Fleurier.
Các giai đoạn lịch sử của thương hiệu
Năm 1860, Louis-Ulysse Chopard 24 tuổi ( 1836 – 1915 ) thành lập nhà máy LUC của mình ở Sonvilier, Thụy Sĩ. Để tạo sự khác biệt so với các đối thủ trên thị trường, ông tập trung vào việc chế tạo những chiếc đồng hồ bỏ túi siêu mỏng có độ chính xác cao và được chế tác tinh xảo. Ông đi khắp Đông Âu, Nga và Scandinavia để tìm kiếm thị trường, trở thành nhà cung cấp cho Sa hoàng Nicholas II.
Sau khi Louis-Ulysse qua đời, con trai ông là Paul-Louis (1959 – 1940) tiếp tục tiếp tục kế thừa sự nghiệp của gia đình. Ông mở một công ty con ở La Chaux-de-Fonds, nơi trở thành trụ sở chính của công ty vào năm sau. Tới năm 1937, Công ty chuyển đến Geneva, thủ đô chế tạo đồng hồ thế giới, nơi Paul-André Chopard ( 1898-1968 ), cháu trai của Louis-Ulysse, tiếp tục truyền thống gia đình. Tuy nhiên, không ai trong số các con trai của ông có ý định tiếp quản công ty.
Năm 1904, Karl Scheufele I (1877 – 1941) thành lập công ty ở Pforzheim, Đức, chuyên sản xuất đồng hồ trang sức được phân phối dưới thương hiệu Eszeha. Ông đã phát minh ra một thiết bị đặc biệt dùng để gắn đồng hồ bỏ túi lên cổ tay nhờ một hệ thống sáng tạo được cấp bằng sáng chế vào năm 1912. Con trai của ông, Karl Scheufele II (1907 – 1966) sẽ tiếp quản công ty sau Thế chiến I, trước khi chuyển giao nó vào năm 1958 cho Karl III khi đó mới 20 tuổi, cháu trai của người sáng lập.
Năm 1963, Karl Scheufele III thấy rằng việc trang bị cho những chiếc đồng hồ của mình một bộ máy inhouse là hết sức cần thiết. Ông mong muốn có được nhà sản xuất bộ máy Thụy Sĩ cho công ty mình và đã đến thăm một vài công ty. Sau nhiều lần không thành công, cuối cùng anh cũng có được một cuộc hẹn với Paul-André Chopard. Hai người đàn ông bắt đầu ngay lập tức và đạt được thỏa thuận ngay tại đó.
Karl Scheufele III đã mua Chopard và bắt đầu sản xuất những chiếc đồng hồ được trang bị những bộ máy chất lượng hàng đầu. Công ty đã mở rộng và các cơ sở sản xuất mới được xây dựng ở Pforzheim và Meyrin-Genève.
Năm 1976 chứng kiến sự ra đời của đồng hồ Happy Diamonds – Bộ máy này được trang bị vật liệu bằng kim cương có khả năng trượt di động và quay một cách tự do ở giữa hai mặt kính làm từ chất liệu sapphire. Sau đó 4 năm, Chopard đã tiết lộ mẫu St. Moritz, chiếc đồng hồ đầu tiên được thiết kế cho Chopard bởi Karl-Friedrich Scheufele, khi đó mới 22 tuổi. Năm 1988 đánh dấu khởi đầu cho sự hợp tác giữa Chopard và cuộc đua xe cổ điển huyền thoại Mille Miglia qua bộ sưu tập đồng hồ với tên gọi Mile Miglia.
Thương hiệu đồng hồ Chopard lại trình làng bộ sưu tập đồng hồ thể thao mới vào năm 1993 mang tên Happy Sport. Trong năm sau, Imperiale là bộ sưu tập được ra mắt với phong cách thiết kế dựa theo ý tưởng từ thời hoàng kim của các đế quốc.
Năm 1966, Karl-Friedrich Scheufele thành lập nhà máy sản xuất để chế tạo các bộ máy L.U.C có độ chính xác cao ở Fleurier, thuộc vùng núi Jura. Kể từ đó, chín dòng calibre hoàn chỉnh đã được tạo ra. Song song đó, Karl Scheufele và José Carreras cùng nhau tạo ra một dòng đồng hồ phiên bản giới hạn. Số tiền thu được từ việc này sẽ được sử dụng cho các chương trình chống lại bệnh bạch cầu sau này.
Năm 1997: Đây là năm Chopard giới thiệu bộ máy L.U.C 1.96 của L.U.C 1860. Chiếc đồng hồ được tạp chí Montres Passion của Thụy Sĩ vinh danh là chiếc “đồng hồ của năm”. Năm 1998, Chopard trở thành đối tác chính thức của Liên hoan phim Cannes. Thương hiệu đồng hồ Thụy Sỹ này cho tổ chức buổi lễ vào năm 2000 để ra mắt đồng hồ L.U.C Quatro được trang bị bộ máy inhouse L.U.C Calibre 98,01-L hay còn gọi là L.U.C 1.98 bao gồm 4 hộp cót có khả năng dự trữ năng lượng trong vòng 9 ngày.
Năm 2001, L.U.C Tonneau ra đời với khả năng lên dây cót tự động là hình Tonneau đầu tiên trên thế giới cùng bộ vi mạch microrotor được đặt ở vị trí trung tâm. Năm 2003, L.U.C Calibre 02.01 (L.U.C 1.02) và sản phẩm đồng hồ L.U.C Tourbillon là bộ máy tiếp theo được hãng trình làng. Chiếc đồng hồ L.U.C Regulator được giới thiệu vào năm 2004 ở triển lãm đồng hồ và trang sức thế giới Baselworld.
Năm 2006 đánh dấu mốc kỷ niệm 30 năm bộ sưu tập Happy Diamonds. Mười năm kể từ ngày khai trương Nhà máy LUC. Đồng thời, thương hiệu cũng cho khánh thành bảo tàng L.UCEUM của Chopard ở Fleurier.
Năm 2007 đánh dấu sinh nhật lần thứ 60 của Liên hoan phim Quốc tế Cannes và kỷ niệm 10 năm hợp tác với Chopard. Caroline Gruosi-Scheufele – người đã tạo ra sự hợp tác này đã thiết kế chiếc cúp Cành cọ vàng (Palme d’Or) để trình diễn cùng bộ sưu tập bao gồm 60 tác phẩm Haute Joaillerie.
Năm 2013, để kỷ niệm sản phẩm đồng hồ Happy Sport lần thứ 20, thương hiệu này đã mang đến cho khách hàng một cơ hội thú vị chính là việc tự mình tạo nên một chiếc đồng hồ Happy Sport thông qua một ứng dụng.
Năm 2014, sản phẩm đầu tiên được làm từ vàng Fairmined có tên L.U.C Tourbillon QF Fairmined ra đời. Đây cũng là năm doanh số bán hàng của thương hiệu cán mốc 800 triệu Franc Thụy Sỹ. Tính tới thời điểm năm 2004, số nhân viên trực tiếp làm tại Thụy Sỹ là 900 nhân viên trên tổng số 2000 nhân viên trên toàn thế giới. Kể từ năm 2002, thương hiệu đồng hồ Chopard đã sở hữu trong tay hơn 20 bằng sáng chế.
(11)